Chỉ
một tuần sau chuyến công du của Ngoại trưởng Henry Kissinger, thấy rõ ý
định "bỏ rơi" của Mỹ cũng như các điều kiện bất lợi với Việt Nam Cộng
hòa, Trung Quốc đã điều chiến hạm ra cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
40 năm trước, ngày 19/1/1974, một biến
cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam hiện đại đã diễn ra - hải chiến
Hoàng Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc. Sau
trận chiến, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận thiêng liêng và không thể
tách rời của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm giữ.
Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường (Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo), đã có bài viết tái hiện những sự kiện chính diễn ra trước, trong và sau trận hải chiến:
Suốt nhiều thế kỷ, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và công khai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
khi các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền bất cứ quốc gia nào. Từ thế kỷ
XVII, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện hiệu quả chủ quyền với hai quần
đảo này và luôn bảo vệ các quyền, danh nghĩa của mình trước mưu đồ và
hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt
Nam với hai quần đảo thiêng liêng của mình.
Đầu thế kỷ XX, nhận thấy vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng của
biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, một số
quốc gia (điển hình là Trung Quốc) đã xâm chiếm bất hợp pháp các vùng
lãnh thổ này của Việt Nam.
Xem chi tiết.
|
Trung Quốc luôn coi biển Đông, đặc biệt là các quần đảo của Việt Nam là
bàn đạp quan trọng để thực hiện chiến lược bành trướng xuống Đông Nam
Á. Vì vậy, giới cầm quyền Trung Quốc từ Trung Hoa Dân Quốc cho đến Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa đã không ngừng đẩy mạnh thực hiện âm mưu độc
chiếm biển Đông.
Lợi dụng tình hình rối ren khi Nhật đầu hàng đồng minh và việc giải
giáp quân Nhật theo Hiệp định Postdam 1945, Trung Hoa Dân Quốc đã đem
quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (quần đảo
Trường Sa) vào cuối năm 1946. Sau đó Trung Hoa Dân Quốc rút quân khỏi
Hoàng Sa, và Nhật rút quân khỏi quần đảo này theo Hòa ước San Fransisco
1951. Sau khi Hiệp định Geneva 1954 được ký kết, Pháp rút khỏi Đông
Dương, ngày 21/1/1956 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng
đảo Phú Lâm và Lin Côn.
Năm 1974, nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
bằng vũ lực toàn bộ nhóm đảo Trăng Khuyết phía tây nam quần đảo Hoàng
Sa. Thời cơ này xuất phát từ tình hình, bối cảnh quốc tế và trong nước.
Đầu thập niên 1970, phong trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam diễn ra sôi nổi và rộng khắp trên thế giới
khiến Mỹ ngày càng xa lánh Việt Nam Cộng hòa; đặc biệt sau khi ký kết
Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh phải
rút quân khỏi Việt Nam. Do không muốn tham gia vào một cuộc chiến đã
bước vào hồi kết, tháng 6/1973 Lưỡng viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật "Case-Church" cấm cơ quan hành pháp nước này tái can thiệp quân sự vào ba nước Đông Dương trừ khi được chấp thuận của Lưỡng viện.
Ngoài ra, Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không
can dự vào trận Hải chiến 1974 vì khi đó, Việt Nam và Trung Quốc đều đi
theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Việc Washington “làm ngơ” cho Bắc Kinh
ngang nhiên chiếm Hoàng Sa sẽ tạo thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn
đến chia rẽ giữa các nước cộng sản. Khi người "bảo trợ" đã ra đi, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa rơi vào tình thế đơn độc và bất lợi trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Cuộc đụng độ biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân
Trung Hoa (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ
đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc
đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng
thống Richard Nixon tháng 2/1972. Sau chuyến công du đó, Trung Quốc trở
thành "đồng minh giai đoạn" của Mỹ để kìm chân và chống lại Liên Xô. Mỹ
không muốn quan hệ chiến lược này bị rạn nứt vì vụ Hoàng Sa. Việc lựa
chọn giữa "đồng minh cũ" hay "người bạn mới" trong “thời kỳ trăng mật”
này không phải là sự lựa chọn khó khăn đối với Mỹ.
Ngoại trưởng Kissinger trong chuyến thăm Trung Quốc. Ảnh tư liệu
Thực tế, trong trận Hải chiến Hoàng Sa chính quyền Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đã nhiều lần thông báo tình hình với Đại sứ quán Mỹ nhưng
Washington đã không có động thái hỗ trợ nào.
Trên vùng biển Đông ngoài khơi Việt Nam gần với đảo Hải Nam
(Trung Quốc) và Hoàng Sa (Việt Nam) thời điểm đó có mặt Hải đoàn 77
(Task Force 77) của Hải quân Mỹ gồm các hàng không mẫu hạm và các chiến
hạm yểm trợ. Hải đoàn này đủ khả năng kiểm soát không và hải phận, cũng
như hoạt động của các tàu ngầm trong vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, Mỹ đã hoàn
toàn đứng ngoài cuộc.
Cũng thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa mới chỉ là quan sát viên mà
chưa phải thành viên của Liên Hợp Quốc trong khi Trung Quốc là một trong
5 nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Vị thế quốc tế của
Trung Quốc khiến nước này tự tin rằng, Việt Nam Cộng hòa không có đủ tư
cách sử dụng các cơ chế để tự vệ và bảo vệ Hoàng Sa theo các điều khoản
của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Ngày 30/1/1974, Lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông đã báo cáo về Bộ
Ngoại giao và Đại sứ quán Mỹ ở các nước liên quan về những tính toán của
Trung Quốc trong việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cơ quan
này nhận định, Trung Quốc đã có ý đồ đánh chiếm Hoàng Sa từ trước.
Theo phân tích của lãnh sự quán Mỹ, quyết định đánh chiếm Hoàng Sa phụ
thuộc vào một số yếu tố như tiềm năng về dầu khí tại khu vực, lo ngại
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa
cũng như lợi ích chiến lược về lâu dài của quần đảo.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có thể lo sợ việc Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa sẽ không tiếp tục giữ thái độ im lặng trước vấn đề chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa. Bằng việc sử dụng vũ lực, Trung Quốc đã tránh tình huống
nguy hiểm hơn nhiều sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố
chủ quyền về Hoàng Sa. Điều này đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam tiến hành sau khi đất nước thống nhất.
Theo nhận định trong các hồ sơ ngoại giao được giải mật, nỗi lo sợ ngày
càng lớn của Trung Quốc trước hoạt động của hải quân Liên Xô tại biển
Đông và các vùng biển khác ở châu Á có thể là yếu tố dẫn đến quyết định
của Trung Quốc. Đây là thời kỳ đỉnh điểm rạn nứt quan hệ Xô - Trung liên
quan đến tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới hai nước, cũng như các vấn
đề Nam Phi, Trung Đông và Đông Dương.
Trong lúc nhiều yếu tố bên ngoài nghiêng về hướng có lợi cho một cuộc chiến chớp nhoáng của Trung Quốc thì bối cảnh trong nước cũng hết sức bất lợi cho Việt Nam Cộng hòa khi Lưỡng
viện Mỹ giảm dần viện trợ từ 1,4 tỷ USD năm 1972 xuống 1 tỷ USD năm
1973 và 700 triệu USD vào năm 1974. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dần rơi
vào thế thụ động vì thiếu nhiên liệu, vũ khí. Bất lợi hơn
là ý định “bỏ rơi” miền Nam Việt Nam của Mỹ. Tình trạng phân chia Bắc -
Nam cũng là một trở ngại cho phía Việt Nam Cộng hòa trong trận hải chiến
1974.
Lợi dụng bối cảnh đó, Trung Quốc đã không e ngại khi điều động chiến hạm đến cưỡng chiếm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét