Đã đến lúc, dù không đúng lúc, ông tôi chết!
Tháng 8 21, 2013
Khuất Đẩu
Truyện ngắn
Ông tôi đã chết!
Chết ở tuổi 99 nên sự tiếc thương được
mọi người dành cho ông chỉ là: Uổng quá há, còn năm nữa thôi, sao không
ráng sống cho đủ trăm? Làm như thể “đủ trăm” thì ông mọc được cánh mà
bay lên giời! Dĩ nhiên, vì chưa đủ trăm nên đến tận cuối đời, ông vẫn cứ
phải nằm trên chiếc giường mà dù có thay chăn chiếu từng ngày, thì cái
mùi của người già, một cái mùi ngai ngái, khăm khẳm vẫn khiến cho những
cái mũi trẻ trung của khách đến thăm phải khó chịu. Họ kính cẩn (hay giả
vờ kính cẩn) đặt quà lên bàn, run rẩy đưa cả hai bàn tay úm lấy tay
ông. Bàn tay ông thì xương xẩu lạnh lẽo. Bàn tay họ thì mum múp ấm áp.
Chưa khi nào mà sự tương phản của tuổi trẻ và tuổi già lại rõ rệt đến
thế.
Ông chết ngày 15 tháng 8. Lại tiếc!
Phải chi ráng thêm 4 ngày nữa thì trọn
vẹn làm sao, vì đó là ngày cách mạng thành công! Một ngày mà ông sung
sướng, hãnh diện, luôn nhắc tới, luôn nhớ tới. Ông thường nói, mẹ cha
chỉ sinh ra mỗi cái xác, chính cách mạng mới sinh ra ông cái phần hồn.
Không có cái ngày ấy thì ông cũng u mê tăm tối như bao thế hệ trước mà
thôi.
Ngày ấy ông 26 tuổi. Từ một anh chân
quê, quanh năm bận bịu với cái cày cây cuốc, ỗng bỗng dưng được mặc đồ
đại cán, đi dép cho dù là dép râu, đội mũ nan bọc vải, mang xách cốt
bằng da bò và cứ thế đi xuống xã chạy lên huyện vun vút như con thoi. Có
trời mới biết được ông làm đến chức gì. Ngay như bà tôi, là người có
một thời tâm phúc ruột rà với ông, mà cũng chỉ biết ông có mỗi một việc
là hết đi lại về. Chuyện nhà cửa ruộng vườn, chuyện con cái ốm đau,
chuyện tết nhứt giỗ chạp… ông mặc nhiên trút cái gánh hết sức nặng nề đó
lên đôi vai mỏng mảnh của bà. Công tác, lúc nào cũng công tác, bà nói.
Mà có đưa về được đồng xu cắc bạc nào đâu. Toàn là lấy của nhà. Nhưng
nhà đâu có của nả gì. Cũng chỉ toàn là mồ hôi, nước mắt của vợ con thôi.
Hỏi thì bảo cấm hỏi, làm cách mạng là phải hy sinh. Đến xương máu còn
chưa tiếc, huống hồ là bạc tiền.
Vậy đó, bà nói, ông mày làm cách mạng
như thể được mời đi ăn cỗ. Chỉ có mỗi một việc là bỏ dép, phủi chân cho
sạch bụi lên ngồi xếp bằng trên phản. Trước mặt là cỗ bàn ê hề. Hết chả
lụa đến chả giò. Hết tim cật xào lăn đến canh cá ám. Hết bún Song Thần
đến bún Bồng Sơn. Mời mọc nhau, mà thực ra là rình rập nhau, lựa riêng
miếng nạc cho mình mà đẩy miếng xương cho kẻ khác. Thi nhau nói, thi
nhau cười, vẫn không quên thi nhau gắp, thi nhau múc, thi nhau chan, thi
nhau húp, thi nhau lua… xì xoạp đến hả hê. No nê xong lại bày ra bài
bạc, đàn hát. Trong khi đám đàn bà con gái dưới bếp thức dậy từ khuya,
hết mổ gà lại cắt tiết vịt, hết chiên lại xào, hết đưa những cái tô đầy ụ
lên lại đem những cái đĩa nhẵn bóng xuống, hết rượu đến trà, để rồi khi
cỗ tàn thì chỉ còn lại trong nồi chút nước có váng mỡ, chan húp đại một
chén cơm hay đĩa khoai rồi lại phải mướt mồ hôi mà dọn rửa chén bát, kỳ
cọ chảo nồi cho đến tận nửa đêm… Ai là dân, ai là quan? Ai sướng, ai
khổ? Cháu biết rồi đấy, không cần phải nói!
Thưa rằng, sở dĩ bà có giọng cay đắng
phản cách mạng như thế là vì sau 9 năm, tức hơn 3000 ngày đi đi về về
không một chút nào ngơi, ông tôi bỏ bà ở lại trong tay giặc để đi tập
kết! Đi một mình thì nói làm chi, đằng này lại được Đảng ưu ái cho đem
hai bác tôi theo, một người lúc đó lên 10, một người lên 8. Còn ông thì
cũng không quên ưu ái tặng thêm cho vợ một cái bụng bầu, để rồi sau đó
phải gạt nước mắt mà sinh con trong tù.
Cứ tưởng ông và các con đi 14 tháng lại
về, không ngờ đến những hơn 20 năm. Đó là quãng đời dài cơ cực nhất của
bà. Vì là vợ của cán bộ nên bà bị chính quyền mới hành tới hành lui, kêu
lên kêu xuống hạch hỏi đủ điều. Cái ô nhục của một người đàn bà có
chồng cán bộ không kể sao cho xiết. Bọn nghĩa quân, bọn dân vệ đứa nào
cũng tự cho mình có cái quyền được chọc ghẹo, gạ gẫm, sờ mó, tán tỉnh
bất kể là ngày hay đêm. Có đứa đáng tuổi em út cũng lên giọng cớt nhả:
bỏ quách thằng cán bộ già đó đi, về với anh, em Hai ơi!
Ruộng đồng bị bom đạn hai bên thi nhau
cày xới, bà phải bồng con lên chui rúc ở chợ súc vật Bình Định. Mùi phân
heo gà, mùi nước đái trâu bò nồng nặc trong suốt hai chục năm, khiến
cho cái đầu của cha mày trở nên khai ngấy, tối đen, học mãi cũng không
đậu nổi cái tú tài, đành phải đi trung sĩ, bà nói một cách chán nản.
Đến tuổi lính thì phải đi thôi, không đi
mà yên thân với nó à? Nhưng ông mày lại nổi xung lên, cho đó là nỗi
nhục! Ở Bắc về, cha tôi kể thêm, câu đầu tiên ông mày hỏi bà là, sao
không đưa nó lên núi theo cách mạng?
Nghe hỏi thế, bà hứ một cái cốc, theo làm gì, theo chi ba cái thứ mà ai cũng ghét!
Ông gầm lên, bà dám ăn dám nói như vậy hả? Nó theo ai, bà để nó theo giặc à?
Ừ, bà ngẩng đầu lên, cái đầu giờ đã lốm
đốm bạc, thách thức, thì theo giặc đó, sao ha? Còn thằng Hùng và thằng
Cường theo ông thì giờ ở đâu, sao không thấy về?
Ông nói lấp mấp, tụi nó đang công tác.
Công tác gì, bà hỏi dồn, hòa bình thống nhất rồi thì cũng phải về thăm mẹ chứ.
Rồi như linh cảm bởi cái sợi dây thiêng liêng giữa mẹ và con, bà gào lên, con tôi đâu, con tôi đâu? Trả lại con cho tôi!
Đến lúc này, ông mày mới rón rén bước lại bên bà, nói nhỏ đủ để bà nghe, hai đứa hy sinh hết rồi!
Hy sinh là sao? Bà khóc nức nở. Ai bắt chúng nó hy sinh? Ông hả? Hay là cái Đảng chết tiệt của ông?
Tôi cấm bà nói thế, ông lại gầm lên.
Cấm mà được à, mất con mà không cho tôi
nói sao? Tôi sẽ đi ăn xin, sẽ gối đất nằm sương ra tận cái Trung ương
Đảng của ông để đòi lại con.
Để tôi nói cho bà nghe, ông trở nên nhũn
nhặn, tụi nó lần lượt hy sinh là hết sức vẻ vang cho gia đình mình đó.
Một đứa trên đường Chín Nam Lào, một đứa tại Quy Nhơn trong Tết Mậu
Thân, nghe đâu tại kho xăng ông Tề.
Vậy là các con tôi chết cả rồi, bà khóc
quều quào, con ơi là con ơi! Con chết bờ chết bụi, chết tức chết tối,
chết đói chết khát mà người ta bảo là vẻ vang, vẻ vang cái nỗi gì hả
trời! Đi, ngay bây giờ đây tôi đi ra Bắc đòi con, ông có dám đi với tôi
không?
Ai cho phép bà làm cái việc phản động
đó, ông hốt hoảng, tụi CIA xúi giục à, hay là cái thằng con theo giặc
trời đánh của bà? Phải chi không có nó thì bà đã được phong tặng bà mẹ
anh hùng rồi.
Ối trời ơi, anh hùng cái nỗi gì! Bà lại gào lên, con chết mà mẹ lại anh hùng! Có người mẹ nào lại khốn nạn như thế?
Cái buổi chiều đoàn viên không có tiếng
cười ấy, tưởng chừng sẽ chia cắt hai người mãi mãi, nhưng không hiểu sao
họ vẫn cứ sống chung một nhà. Có lẽ ngoài những điều khác biệt như tối
và sáng, ông tôi và bà tôi may ra hãy còn có một điểm chung. Đó là,
trong suốt 20 năm ở miền Bắc, ông không dối Đảng để lấy vợ khác, còn bà,
tuy chẳng tin gì ở ông nhưng cũng không chịu lấy ai.
Sống chung dưới một mái nhà, nhưng bao
nhiêu uất hận đã được tuôn ra như một cái đập vỡ, nên bà chẳng hề mở
miệng với ông một lần nào nữa. Ngay lúc lâm chung, ông ú ớ muốn giăng
dối điều gì, bà cũng lặng câm như chưa từng biết nói. Bà đi chùa gần như
mọi ngày. Ở đó bà lầm rầm cầu xin đức Phật giải oan cho các con. Bà
cũng khóc mà xin các con tha tội cho mẹ, vì đã sinh ra các con nhưng lại
thua một con gà mái, không dám xù lông ra trước con diều để bảo vệ
chúng.
Ông thì ngược lại, ngày nào cũng đến câu lạc bộ hưu trí, đọc báo Nhân dân,
đánh cờ và chê bai lớp cán bộ trẻ, nhất là những kẻ a dua, đầu đội nón
cối nhưng bụng thì đầy bơ sữa của Mỹ Ngụy. Cha tôi, dù cố tránh mặt ông,
nhưng vẫn bị ông càm ràm bực bội. Ông bảo, trong nhà có mùi của thằng
giặc nên ăn không thấy ngon, ngủ không yên giấc!
Ngày 19 tháng Tám, ngày 30 tháng Tư,
ngày 19 tháng Năm, ngày 2 tháng Chín và bao nhiêu ngày lễ khác nữa, ông
sung sướng tự hào được khoác áo đại cán, có dịp đeo huân chương đầy
ngực, hãnh diện được ngồi ở hàng ghế của cán bộ lão thành. Huân chương
của ông nhiều đến nỗi, nếu đeo hết phải tràn ra cả sau lưng và chen nhau
xuống tận rốn, lúc nào cũng được ông chăm chút lau chùi trịnh trọng.
Ông có thể ngồi kể suốt ngày cho con
cháu nghe (mà có đứa nào chịu nghe đâu) lịch sử từng cái một, chiến công
gì, thành tích ra sao, được trao ngày tháng nào, và ai trao, có bao
nhiêu cái được chính tay Bác ký, bao nhiêu lần được gặp Bác, ôi thôi, cả
một trời những chuyện có thật và những chuyện tưởng như có thật.
Đã có lần ông muốn viết hồi ký bằng cách
kể lại cho tôi ghi. Ông cũng tập tễnh làm thơ ca ngợi Đảng và Bác. Thơ
ông được in trên nội san của tỉnh ủy và đã có lần được ngâm đọc trên đài
phát thanh. Như mọi người cộng sản chân chính, ông không hề biết khiêm
nhường là gì, cứ đem cái vinh quang trong thời bình ấy ra kể mãi.
Ông cũng không hề xót xa mà ngược lại
cảm thấy sung sướng khi ruộng đồng được san lấp để từ đó chạy dài những
con đường thẳng tắp, mọc lên những ngân hàng nhà nước, cục thuế, đồn
công an to đùng. Ông bảo, như thế mà không tiến bộ à, đúng như Bác nói,
giờ to đẹp gấp mười lần xưa.
Vì là người cộng sản, nên ông cũng là
một trong những người lạc quan nhất nước. Sợ gì Pôn Pốt, Đặng Tiểu Bình!
Ông nói, mặc kệ cái lý thuyết mèo trắng mèo đen ngu xuẩn và cái giấc
mộng bá bành đáng ghét của nó, mọi việc đã có Đảng lo. Vậy nên, so với
bà lúc nào cũng ưu tư rầu rĩ, ông sống rất hồn nhiên, vô tư. Ông như đứa
bé còn nằm trong nôi được Đảng đút từng muổng sữa, thay từng chiếc tã.
Chỉ có mỗi một việc là nằm mút tay rồi ngủ, chưa cần biết tới những gì
xảy ra ở bên ngoài.
Bà thường chua xót nói, ông mày chỉ biết
ghét tao và căm thù thằng cha mày chứ biết yêu ai. Nói vậy là bà có hơi
thiếu công bằng với ông. Đâu chỉ có ghét và căm thù không thôi, ông yêu
nhiều lắm chớ, yêu XHCN, yêu các nước anh em, nhất là nước Lào anh dũng
liền núi liền sông.
Có một phóng sự trên truyền hình khiến
ông rất xúc động. Phóng sự kể rằng, có hai đứa bé Lào lạc mất cha mẹ đã
được tình nguyện quân ViệtNamđem về nuôi. Đến nay hai đứa bé ấy đã thành
người già. May mắn làm sao, cả gia đình nhà họ đã được đoàn tụ.
Chính cái lúc bốn mái đầu đã bạc chụm
lại nhau trong ánh hoàng hôn trên sông Mê Kông khiến ông xuýt xoa kêu
lên: tình đoàn kết Việt-Lào đẹp quá, vĩ đại quá! Và có lẽ vì quá đẹp,
quá vĩ đại nên những mạch máu già nua trong não của ông không chịu nỗi,
vỡ ra, khiến ông lịm dần rồi nằm im một chỗ.
Đúng như ông nói, mọi việc đã có Đảng
lo. Từ ngày ông bị đột quỵ đến nay đã mười bốn năm. Mười bốn năm ông
được Đảng đưa từ viện này đến viện nọ, từ Tây y đến Đông y. Đảng lo cho
ông từng viên thuốc, ống kim tiêm (qua bảo hiểm y tế), nhiều lần đút cho
ông ăn, lau rửa cho ông khi đái ỉa (qua hộ lý). Giờ ông chết, Đảng cũng
lo hòm xiểng, tẩm liệm, lo cáo phó trên truyền thanh truyền hình, lo cả
điếu văn… Và nhờ vậy con cháu mới biết được ông đã kinh qua rất nhiều
chức vụ.Từ quân sự đến chính trị, từ văn hóa đến cả khoa học, nhiệm vụ
nào ông cũng hoàn thành, khó khăn nào ông cũng vượt qua.
Nói chung, một người có đến 70 năm tuổi
Đảng như ông, tức là được Đảng dạy dỗ trở thành người yêu nước yêu dân
mẫu mực (nhưng không yêu vợ con) thì những chức vụ kia, những huân
chương nọ là rất xứng đáng. Chỉ có một điều ai cũng lấy làm ngờ nhưng
không dám nói ra, ấy là cái chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh X.
bỗng dưng như từ trên trời rơi xuống tỏa ánh hào quang rực rỡ suốt một
cõi (gần đủ) trăm năm của ông.
Nếu bảo rằng cái tin ông chết không
khiến ai bất ngờ là thiếu kính trọng. Mà bảo rằng ai cũng thấy nhẹ người
là thiếu nhân ái mà thừa tàn nhẫn. Còn bảo rằng rất đỗi vui mừng là quá
hỗn. Tiếc rằng đó là sự thật.
Còn như khi đọc cái truyện thiếu văn hóa
này mà có người mơ mộng: ước gì cái Đảng mà ông tôi và nhiều người đã
lỡ tin tưởng ngây ngô, cái Đảng đã làm cho triệu người vui nhưng cũng
rất, rất nhiều triệu người buồn này, cái Đảng đó cũng già nua, ngờ
nghệch đang đột quỵ như ông tôi từ bao nhiêu năm nay, thì cũng nên chết
quách cho rồi! Ước như vậy thì cái tựa đề có thể sửa đôi chút mà làm câu
kết. Rằng: Đã đến lúc, dù không đúng lúc, Đảng chết.
15/8/2013
© 2013 Khuất Đẩu & pro&contra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét