Cải cách ở Myanmar nhìn từ câu chuyện Việt Nam
VSFB – Trong Diễn đàn Kinh tế – Xã hội Việt Nam tại Boston
của Hội Thanh niên – Sinh viên Việt Nam vùng Boston Mở rộng lần thứ 2,
ngày 28/04/2013, Giáo sư David Dapice, Kinh tế trưởng Chương trình Việt
Nam và Myanmar tại Đại học Harvard, một học giả hàng đầu về kinh tế
Đông Nam Á đã chia sẻ về chủ đề “Cải cách ở Myanmar nhìn từ câu chuyện
Việt Nam”.
GS. David Dapice đã nghiên cứu về Đông Nam Á từ cuối thập
niên 1960 với khoảng 20 năm ở tập trung vào Indonesia. Kể từ lần đầu
tiên đến Việt Nam vào năm 1989, ông đã đóng vai trò chính trong các
nghiên cứu và khuyến nghị chính sách của Chương trình Việt Nam tại
Harvard là người đóng vai trò trực tiếp trong hai nghiên cứu quan trọng
nhất của Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard, nhất là hai nghiên
cứu quan trọng gồm: Theo hướng Rồng bay vào đầu thập niên 1990 và Lựa
chọn Thành công năm 2008. Ông là một trong những học giả đầu tiên có
những nghiên cứu sâu về Myanmar từ giữa thập niên 2000, khi mà Myanmar
vẫn chưa có những cải cách gần đây.
Trong thời gian hai giờ với một bài trình bày chính và trả
lời các cấu hỏi thảo luận, GS David Dapice đã tập trung vào một số vấn
đề chính sau:
1.Thách thức đổi với cải cách kinh tế ở Myanmar
Là người không lạ gì về những vấn đề của Việt Nam và
Myanmar, khi mở đầu phần trình bày của mình GS. David Dapice đã nhấn
mạnh sự khó khăn trong cải cách của Myanmar. Ông đã có một ví von rất
đáng suy ngẫm là nếu người Việt Nam muốn cảm thấy mình may mắn, đang ở
một mức độ phát triển kinh tế tốt thì hãy đến Myanmar. Ông đã mô tả tình
hình kinh tế Myanmar thông qua các số liệu kinh tế. Căn cứ theo chỉ số
tổng thu nhập quốc nội thực tế (GNI) trên đầu người, Myanmar có chỉ số
kém hơn Bắc Triều Tiên và thua xa Việt Nam hiện nay.
Động lực cho cải cách kinh tế hiện nay của Myanmar là nhằm
để thoát khỏi đói nghèo, thiết lập hòa bình và thoát khỏi tình trạng bị
cô lập. Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã xếp hạng Myanmar ở thứ 163/183 nước
căn cứ vào chỉ số GDP trên đầu người, ngang với Haiti và Rwanda. Trên
thực tế, chỉ có 6% dân số toàn thế giới là nằm ở các nước có chỉ số GDP
ngang hoặc kém hơn Myanmar. Myanmar cũng mong muốn thiết lập hòa bình
bởi chi tiêu chi quân sự đã ở mức ¼ đến ½ ngân sách chính phủ trong khi
các vấn đề thiết yếu liên quan đến đời sống nhân dân chưa được thiết
lập. Giá trị xuất khẩu chỉ chiếm ít hơn 20% GDP của Myanmar và hầu hết
các mặt hàng xuất khẩu là nguyên liệu thô.
Sự phức tạp trong nỗ lực cải cách của Myanmar còn thể hiện ở
việc sử dụng thể chế dân chủ nhằm thực hiện cải cách. Trên thực tế,
phần lớn các nền kinh tế phát triển của châu Á đều khởi đầu cho việc
phát triển kinh tế trên cơ sở một nền chính trị khá mang tính chuyên chế
và sau khi đã xây dựng được một tầng lớp trung lưu thì nền chính trị
của các nước này mới chuyển sang thể chế dân chủ. Tuy nhiên, một số nền
kinh tế thất bại và kém phát triển, trong đó có Myanmar, cũng duy trì
chế độ chính trị độc tài.
GS. Dapice cho rằng lý thuyết đưa ra trong cuốn sách nổi
tiếng “Tại sao các quốc gia thất bại” (Why nations fail) của hai nhà
kinh tế Acemoglu và Robinson có thể chỉ rõ vấn đề của Myanmar. Theo lý
thuyết này, sự thành công về mặt kinh tế của một quốc gia phụ thuộc phần
lớn vào thể chế chính trị của quốc gia đó. Các quốc gia phát triển (ví
dụ như Mỹ hay phương tây) trở nên giàu có vì quyền lực về chính trị và
xã hội không nằm trong tay một nhóm nhỏ quyền lực mà được phân bổ rộng
rãi cho người dân và chính quyền chịu trách nhiệm với dân và đáp ứng nhu
cầu của người dân. Ở các nước này một phần lớn dân chúng có thể tiếp
cận và tận dụng được các cơ hội về kinh tế. Ngược lại, ở các nước mà
quyền lực chỉ nằm trong một nhóm nhỏ thường thất bại về phát triển kinh
tế và cực kỳ nghèo đói. Ở các nước có chính quyền chuyên chế, kinh tế
khó phát triển được bởi sự đàn áp về tự do cá nhân, tự do kinh tế và
phát triển khoa học kỹ thuật.
Tuy vậy, việc thiết lập dân chủ ở Myanmar để nhằm phát
triển kinh tế cũng vấp phải rất nhiều khó khăn và đòi hỏi cần có các cân
nhắc cần thiết về mặt lịch sử và chính trị của nước này. Theo xếp hạng
của Ngân hàng Thế giới về quản trị chính phủ, chỉ số dựa trên các đánh
giá về ảnh hưởng và mức độ tin cậy, ổn định và không có bạo lực, chất
lượng các quy định luật pháp, năng lực chính quyền, pháp quyền và kiểm
soát tham nhũng, chỉ số của Myanmar đứng sau Bắc Triều Tiên, Bangladesh,
Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Malaysia. Các nghiên cứu về Myanmar
của Chương trình Việt Nam và Myanmar đã đánh giá xếp hạng một số chỉ số
cho sự thành công của phát triển kinh tế theo Ngân hàng Thế giới như Mức
độ hội nhập vào kinh tế thế giới, kinh tế vĩ mô, tiết kiệm và đầu tư,
phân chia thị trường, năng lực chính phủ, y tế và giáo dục thì xếp loại
của Myanmar đều ở mức Kém đến Rất Kém, trong khi của Việt Nam là Xấp xỉ
Khá cho đến Xấp xỉ Tốt. Ví dụ về tỷ lệ người biết chữ ở Myanmar, theo
thống kê chính thức của chính quyền thì tỷ lệ này ở mức 90%. Tuy nhiên,
theo một khảo sát riêng của nhóm nghiên cứu thì tỷ lệ này thấp hơn rất
nhiều, có thể chỉ ớ mức khoảng 30% dân số được xếp vào mức biết đọc,
biết viết.
Cũng dựa vào lý thuyết theo cuốn “Tại sao các quốc gia thất
bại”, GS. Dapice cũng chỉ ra rằng việc chuyển đổi từ một hệ thống chính
trị độc tài đến một hệ thống chính trị mở là khó khăn bởi nhóm nhỏ cầm
quyền bao giờ cũng phản đổi cái cách, nhất là với các nước mà tài nguyên
thiên nhiên chiếm vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất. Hệ thống “Chuyên chế cho mục đích phát triển kinh tế”
(Development Authoritarianism) có thể giúp phát triển kinh tế nếu hệ
thống này đầu tư mạnh vào nguồn lực con người và cơ sở hạ tầng và tạo
điều kiện cho cạnh tranh. Điều này khiến hệ thống phụ thuộc nhiều vào
việc xuất khẩu các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chế tạo
(manufactured export). Nếu không, hệ thống này sẽ thất bại, như trường
hợp của Myanmar.
2.Hệ thống liên bang kiểu mới
Với tư cách là các nhà tư vấn cho chính phủ Myanmar về cái
cách kinh tế, nhóm tư vấn của Giáo Sư Dapice đã đưa ra khái niệm “Hệ
thống liên bang kiểu mới” đối với trường hợp của Myanmar. Giáo Sư đã
minh họa đề xuất của nhóm thông qua hai dự án, cải cách mô hình quản lý
đối với ngành khai thác đá ngọc và dự án nhà máy thủy điện Sino-Kachin.
Myanmar là nước có nền kinh tế phụ thuộc lớn vào khai
khoáng, chiếm tới gần 20% GDP của cả nước vào năm 2011. Ở Việt Nam, chỉ
số này khoảng 11% GDP. Myanmar có trữ lượng đá ngọc (jade) lớn, tập
trung ở các mỏ tại thị trấn Hpakant, bang Kachin. Đá ngọc ở Hpakant nổi
tiếng vì có thể tạo ra loại ngọc bích có chất lượng tốt nhất thế giới.
Theo thống kê của chính phủ, giá trị khai thác và xuất khẩu đá ngọc vào
khoảng 3.3 tỷ đô la Mỹ vào năm 2011. Tuy nhiên, theo thống kê không
chính thức thì con số này khoảng 8 tỷ đô la và phần lớn được xuất sang
Trung Quốc thông qua các công ty khai khoáng Trung Quốc. Vấn đề ở chỗ
là số tiền chính phủ thu về từ thuế đánh vào các công ty khai khoáng lại
khá thấp.
Nhóm tư vấn đã đưa ra các kiến nghị giúp cho chính phủ
Myanmar có thể tận dụng được nguồn thu cho ngân sách từ ngành khai
khoáng này. Cụ thể, nhóm kiến nghị minh bạch hóa quá trình cấp phép
hoạt động khai thác khoảng sản với thẩm quyền cấp phép nằm ở cá chính
quyền thống nhất của Myanmar và chính quyền bang Kachin. Điều này có
nghĩa là tổ chức đấu thầu cạnh tranh đối với các mỏ mới phát hiện và
không can thiệp vào việc hết hạn giấy phép của các mỏ khoáng sản hiện
có. Hệ thống thuế cũng nên được đơn giản hóa và giảm mức thu thuế để kêu
gọi đầu tư nước ngoài và trong nước, đồng thời giảm việc xuất khẩu theo
đường không chính thức.
Nhà nước cũng nên tăng cường quản lý ở các khu vực khai
hoang đất và đóng cửa mỏ. Trong khi đó, nguồn thu thuế cũng nên được
phân bổ cho cả chính quyền bang Kachin, chính phủ thống nhất Myanmar và
các bang khác. Theo mô hình này, thuế tài nguyên thiên nhiên đánh vào
việc khai thác đá ngọc sẽ ở mức 50% và với mức thuế này, dự tính nguồn
thu từ thuế tài nguyên thiên nhiên hàng năm từ khai thác đá ngọc sẽ ớ
mức 2-3 tỷ đô. Trong số 50% này, 20% sẽ do chính quyền tỉnh Kachin nắm,
15% sẽ được phân bổ cho chính phủ thống nhất Myanmar và 15% sẽ dành cho
chính quyền các bang khác.
Bên cạnh kiến nghị ở lĩnh vực khoáng sản, nhóm nghiên cứu
cũng kiến nghị đối với mô hình dự án nhà máy thủy điện Sino-Kachin. Mô
hình ban đầu là nhà máy điện sẽ do nhà đầu tư Trung Quốc xây dựng. 90%
sản lượng điện sẽ được xuất khẩu sang Trung Quốc. 10% còn lại nhà máy
sẽ giao miễn phí cho chính phủ Myanmar và chính phủ sẽ bán lại với giá
thấp. Nhóm nghiên cứu cho rằng, mô hình này sẽ không giúp Myanmar có
nguồn thu để đầu tư vào các nhà máy và công trình phát điện khác. Nhóm
nghiên cứu đề xuất là dự án nên có sự tham gia của nhiều nhà đầu tư
khác, với công ty China Power International đóng vai trò là cổ đông lớn
nhất. Các nhà đầu tư khác của khu vực châu Á sẽ là các cổ đông lớn thứ
hai. Công ty Điện lực Myanmar và Công ty Điện lực Bang Kachin sẽ là hai
cổ đông thiểu số còn lại. Chính phủ sẽ đánh thuế tiêu thụ điện ở mức
25% và chính phủ có quyền, nhưng không có nghĩa vụ, mua 20% sản lượng
điện từ nhà máy này và mức giá điện chính phủ bán cho người dân sẽ ở mức
7 cents/kW.
Theo mô hình này, tất cả các bên đều được lợi. Cụ thể,
chính quyền Kachin sẽ có quyền quản lý về mặt nhà nước đối với dự án, có
thêm nguồn thu để xây dựng cở sở hạ tầng và phát triển mối quan hệ cũng
như thiết lập hòa bình với chính quyền trung ương. Với Trung Quốc, nhà
đầu tư Trung Quốc sẽ có thể phát triển nhà máy điện và hệ thống ống dẫn
một cách an toàn, có thêm nguồn điện phục vụ cho tỉnh Yunnan và cũng
giúp giảm chỉ trích từ người dân Myanmar khi người dân được hưởng lợi từ
nguồn điện cũng như tăng thêm thu nhập từ dự án. Chính quyền Myanmar
có thể có thêm nguồn điện phục vụ cho các dự án, cũng như nguồn thu đầu
tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, thiết lập hòa bình với bang Kachin cũng
như các bang khác, và phát triển mối quan hệ cùng có lợi với Trung
Quốc.
Đề xuất về Hệ thống liên bang kiểu mới của nhóm nghiên cứu
tập trung vào hai lĩnh vực: cải cách kinh tế và sửa đổi Hiến pháp năm
2008. Về mặt kinh tế, chính phủ nên thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế, ngăn chặn các hình thức độc quyền sẽ diễn ra, phát triển các
chính sách dựa trên quyền lợi của nông dân (như sửa đổi các luật về tài
nguyên thiên nhiên và luật đất đai); thực hiện chính sách “ân xá” có hạn
chế đối với những trường hợp tích lũy tài sản trước đây, thắt chặt các
luật về môi trường.
Đối với cải cách hiến pháp, nhóm nghiên cứu đề xuất việc
tái cân bằng quyền lực của quân đội và chính quyền dân sự, tiến hành bầu
cử đối với các thống đốc bang, tăng cường quyền lực của Tòa án Tối cao,
sửa lại định nghĩa về công dân, cũng như thực hiện hình thức đại diện
theo tỷ lệ (proportional representation). Về việc xây dựng thể chế
chính trị dân chủ, nhóm nghiên cứu đề xuất tiến hành bầu cử thống đốc
các bang vào năm 2014, cho phép nhiều đảng phải chính trị hoạt động,
không có các rào cản đối với việc tham gia hoạt động chính trị của các
đảng phái, xây dựng hệ thống tài chính công nhằm tăng cường ngân sách
nhà nước và chia sẻ tài nguyên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cho phép một
số khu vực ở chế độ bán tự trị với cơ chế chia sẻ nguồn tài chính riêng
biệt và tiến hành trưng cầu dân ý.
3. So sánh với bối cảnh cải cách ở Việt Nam và Myanmar
Giáo sư cho rằng hoàn cảnh của Việt Nam trước Đổi Mới và
hoàn cảnh của Myanmar hiện nay có rất nhiều nét khác nhau. Ở vấn đề
này, ông đưa ra một nhận xét rất tinh tế rằng, nền tảng khởi đầu cải
cách của Việt Nam được dựa trên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên vẫn có
những nhân tố quan trọng giúp cho việc cải cách dễ dàng và đạt được
những thành công nhất định. Trước Đổi Mới, Việt Nam đã thực hiện chính
sách coi trọng giáo dục và y tế. Thêm nữa, Việt Nam đã thực hiện các cải
cách như tăng cường quyền lợi của người nông dân (thông qua chính sách
khoán hộ và đổi mới trong nông nghiệp), các chính sách về tỷ giá nhằm
phát triển kinh tế. Các chính sách này chưa được thực hiện ở Myanmar.
Đồng thời, mức độ các vấn đề Việt Nam gặp phải cũng khác với các vấn đề
mà Myanmar đang đối mặt. Khác với Việt Nam, nền tảng cải cách của
Myanmar hiện nay dựa trên một dạng của “chế độ phong kiến” nên rất khó
để có thể đạt được những thành công.
Với việc bình thường hóa quan hệ Myanmar – Mỹ và quan hệ
Việt Nam – Mỹ, ông cho rằng mối quan hệ của Myanmar – Mỹ chưa có được sự
tham gia nhiệt huyết của các nhà chính trị từ cả hai phía như tại thời
điểm bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ. Ông đánh giá cao sự tham
gia của các nhà chính trị là cựu binh Mỹ ở Việt Nam như John Kerry, John
McCain và tài đàm phán của các nhà ngoại giao Việt Nam, đặc biệt là vai
trò của Lê Mai.
4. Myanmar – Trung Quốc và những vấn đề trong khu vực
Trung Quốc có mối quan hệ rất gắn bó với đội ngũ lãnh đạo
Myanmar và là nước có kinh nghiệm trong việc phát triển các mối quan hệ
này. Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Myanmar. Một trong những lý
do Myanmar tiến hành mở cửa là do lo ngại họ đang bị phụ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc về mặt chính trị và kinh tế.
Ông cho rằng, vấn đề Myanmar đang gặp phải là giữ gìn an
ninh, nhất là trong bối cảnh các nhóm Phật giáo cực đoan được tài trợ
bởi một số gia đình có thế lực ở Myanmar dùng vũ lực đàn áp thiểu số
những người Hồi giáo (chỉ chiếm khoảng 4% dân số). Việt Nam, là nước
duy nhất ở Đông Nam Á, có lực lượng quân đội tinh nhuệ và không có vấn
đề nghiêm trọng về Hồi giáo cực đoan, có thể tham gia hoạt động gìn giữ
hòa bình tại Myanmar trong khuôn khổ ASEAN. Việt Nam nên tiến hành thảo
luận trước với Myanmar trước khi đề xuất hoạt động này với ASEAN.
Ông cũng cho rằng, trong tương lai gần, không có lý do gì
Mỹ tiến hành chiến tranh với Trung Quốc vì vấn đề về Đông Nam Á. Vấn đề
Mỹ quan tâm ở biển Đông là tự do hàng hải (freedom of navigation). Ông
cũng dự đoán nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng chậm lại (khoảng 50%
mức độ tăng trưởng hiện nay) trong thập kỷ tới.
Phân tích về khả năng một vài nước Asean có thể tiếp bước
thành công như Hàn Quốc hay Đài Loan, ông cho rằng một số nước có cơ hội
và những yếu tố nền tảng. Tuy nhiên, các nước Asean có thể làm tốt hơn
như hiện tại đang làm. Bối cảnh để tăng trường 9-10% một năm như các
nước trên trước đây là rất đặc biệt và khó có thể lặp lại. Tuy nhiên,
việc tăng trưởng 7-8% một năm là điêu nằm trong tầm tay của Indonesia
hay Việt Nam. Thái Lan và Philippines cũng vậy.
Bình luận về khả năng gắn kết sâu hơn của Asean để trở
thành một liên minh chặt chẽ, ông cho rằng trong tương lai, quan hệ giữa
các thành viên trong Asean nói riêng, cả Asean nói chung sẽ có những
bước tiến. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất ở các nước Asean là chủ nghĩa tư
bản thân hữu (crony capitalism) ở một số nước. Các nhóm này sẽ cản trở
quá trình tự do thương mại trong Asean vì nó đe dọa đến lợi ích của họ.
5. Một số bình luận về các vấn đề ở Việt Nam
Mặc dù không còn theo dõi sát tình hình kinh tế Việt Nam
như trước đây, nhưng GS David Dapice đã đưa ra những nhìn nhận rất tinh
tế của mình về các vấn đề của Việt Nam và quan ngại về việc kinh tế Việt
Nam đang phát triển chậm lại. Ông lấy ví dụ là mức độ tiêu thụ xăng
dầu của Việt Nam giảm đến 10% trong ba quý năm 2012. Theo ông, đây là
dấu hiệu không thể thấy ở một nền kinh tế đang phát triển bình thường và
cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang có vấn đề nghiêm trọng, thậm chí mức
độ tăng trưởng đang giảm hơn rất nhiều so với con số thống kê.
Ông cũng lấy ví dụ về Indonesia, một nước vốn không được
đánh giá cao ở khu vực Đông Nam Á về thu hút đầu tư nước ngoài do tình
trạng quan liêu tham nhũng tràn lan trong chính quyền. Tuy vậy, hiện
nay Việt Nam đã bị Indonesia vượt về thu hút đầu hút đầu tư nước ngoài.
Điều này chứng tỏ đang có sự dịch chuyển của các nhà đầu tư từ thị
trường Việt Nam sang thị trường các nước khác. Đây là điều đáng lo ngại
với nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các nhà đầu tư, đặc
biệt là Nhật Bản, thực hiện chính sách “anything but not China”, có
nghĩa là họ sẵn sàng giảm thiểu rủi ro bằng việc đầu tư vào bất kỳ nước
nào có điều kiện đầu tư thuận lợi ngoài Trung Quốc [một trong những điều
rất đáng lo ngại đối với Việt Nam là Việt Nam đã bị tụt hạng trong đánh
giá của các nhà đầu tư Nhật- người tóm tắt].
Theo ông, chính phủ Việt Nam cần xác định rõ ràng mục tiêu
chính sách của mình: phát triển kinh tế để làm giàu đất nước hay để các
nhóm lợi ích chi phối hoặc chỉ vì mục tiêu của một nhóm thiểu số. Nếu
mục tiêu là làm giàu đất nước thì chính quyền không thể tiếp tục dùng
ngân sách đầu tư vào các ngành Việt Nam không hề có lợi thế cạnh tranh
như trường hợp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu, cũng như không thể
dùng các chính sách để hỗ trợ đầu cơ thị trường bất động sản như hiện
nay. Theo ông, với thị trường bất động sản, nếu chính phủ tiếp tục thực
hiện việc “cứu thị trường” thì hậu quả là chính phủ sẽ phải lấy ngân
sách nhà nước để cứu các ngân hàng là chủ nợ của nhóm các nhà đầu tư bất
động sản lớn. Giá nhà đất ở Việt Nam ở mức quá xa mức cung – cầu thực
tế của thị trường và chính phủ thay vì can thiệp vào thị trường thì phải
để thị trường tự quyết định và bình ổn lại giá bất động sản.
Ông cũng quan ngại rằng trên thực tế, chưa có một thảo luận
nghiêm túc nào ở cấp chính phủ về thực trạng và giải pháp với nền kinh
tế Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Theo ông, để một đất nước phát
triển, đội ngũ lãnh đạo cần có khả năng (skills) và cần xác định mục
tiêu kinh tế đúng đắn.
Ông cho rằng, Việt Nam đang “chảy máu chất xám” vì đội ngũ
lao động trình độ cao không về nước, hoặc chuyển sang làm việc ở nước
ngoài vì bối cảnh kinh tế phát triển kém và các lo ngại về môi trường
sống ô nhiễm. Đây là vấn đề mà đội ngũ lãnh đạo thực sự cần phải thực
sự quan tâm, nhưng theo GS David Dapice, ông chưa thấy được chính quyền
thực sự lo ngại về vấn đề này.
Phan Thanh Mai tổng hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét