Thứ Tư, 01/08/2012 - 15:25
Cái giá của xung đột vũ trang
Trung Quốc đang chơi một nước cờ mà tự đẩy mình vào thế "lưỡng bại câu thương". Vấn đề là liệu các nước trong khu vực có đủ bình tĩnh để kiềm chế, không tự đẩy mình vào xung đột?
Việc Trung Quốc tính
toán đến khả năng vũ trang cho hơn 100000 ngư dân tại tỉnh Hải Nam theo
đề xuất của Hạ Kiến Bân - Chủ tịch Tập đoàn quốc doanh Ngư nghiệp Bảo Sa
tại tỉnh Hải Nam nhằm biến lực lượng ngư dân này thành một "lực lượng
quân sự mạnh hơn tất cả các nước khác ở biển Đông gộp lại" đã cho thấy
nguy cơ căng thẳng tại biển Đông đang leo thang.
Trong một bài viết mới đây đăng trên Foreign
Policy, tác giả Jim Holmes đã ví von đây là "thời khắc vũ trang" của
Trung Quốc trỗi dậy. Một lần nữa, mọi người lại tiếp tục lo lắng rằng
liệu những hành động của Trung Quốc đã lên đến đỉnh điểm?
Trước đây Trung Quốc
chỉ sử dụng tàu hải giám, ngư chính để bắt bớ, đuổi tàu cá của các nước
khác. Nhưng sau đó, việc Trung Quốc sử dụng các tàu hải giám, ngư
chính,... hỗ trợ các tàu cá để chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines
vào tháng 4 vừa qua đã chứng minh cho sự gia tăng của các hành động gặm
nhấm chủ quyền của Bắc Kinh. Mọi chuyện đã không dừng lại như trước
đây, khi sự việc Scarborough chưa lắng xuống, Trung Quốc lại định sử
dụng cách tương tự một lần nữa khi đưa 30 tàu cá cùng 4 tàu hộ tống đến
đánh bắt ở vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Tàu khu trục Type-052B của Trung Quốc.
Điều dễ nhận thấy là
các tàu hải giám và ngư chính đang được sử dụng cho các mục đích quân sự
ngày càng rõ ràng, nhằm tăng sự hiện diện và kiểm soát của Trung Quốc
tại vùng biển tranh chấp, đồng thời ngăn chặn sự hiện diện chủ quyền của
các quốc gia khác trong khu vực.
Hơn nữa, các hành động
quân sự hóa trên biển Đông và chèn ép các nước láng giềng của Trung Quốc
đã không còn dừng lại ở các đơn vị dân sự như tàu cá hay bán quân sự
như hải giám, ngư chính.
Sự xuất hiện của các
tàu chiến hiện đại trên biển Đông không chỉ là kết quả tất yếu của quá
trình hiện đại hóa hải quân và không quân của nước này mà còn thể hiện
sự hung hăng và liều lĩnh ngày càng tăng của tham vọng bá quyền nước
lớn. Như việc Trung Quốc thông báo địa bàn hoạt động của Varyag - tàu
sân bay đầu tiên của nước này sẽ là biển Đông vào tháng 8/2012, hay
việc Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc - phụ trách tác chiến tại biển Đông
được tăng cường tàu hộ vệ tên lửa mới nhất vào 9/7 hay sự kiện một tàu
khu trục của TrungQuốc mắc cạn tại vùng Đặc quyền kinh tế của
Philippines vào 11/7...
Tất cả các hành động
trên đều cho thấy một điều rằng Trung Quốc đang rất "rốt ráo" tăng cường
hiện diện quân sự trên biển Đông và nước này chắc chắc sẽ càng ngang
ngược hơn nữa với các hành động xác quyết chủ quyền trong tương lai.
Chạy đua vũ trang?
Tuy nhiên, chính điều
này đã đẩy các nước trong khu vực vào một cuộc chạy đua vũ trang và hiện
đại hóa quân đội. Theo IHS Jane's, các nước Đông Nam Á cùng nhau đã
tăng 13,5% chi tiêu quốc phòng trong năm 2011, lên 24,5 tỷ USD và dự
đoán sẽ tăng lên đến 40 tỷ USD vào năm 2016.
Sự gia tăng chi phí
quân sự chủ yếu là của các quốc gia biển ở Đông Nam Á. Philippines cũng
đã tăng chi phí quân sự lên gần gấp đôi vào 2011 và mua lại một tàu tuần
tra lớp Hamilton của Mỹ, nước này cũng đã tuyên bố sẽ đấu thầu mua thêm
các vũ khí mới, bao gồm cả máy bay chiến đấu, tàu tấn công nhanh,
radar,... vào tháng 8/2012.
Trước bối cảnh các quốc
gia khu vực gia tăng sức mạnh quân sự, Mỹ cũng không đứng ngoài cuộc
sau khi tuyên bố trọng tâm đối ngoại của Mỹ trong tương lai sẽ là khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong năm 2012, Mỹ đã nhanh chóng đẩy mạnh
chính sách "xoay trục" với việc tái bố trí và tái cơ cấu lực lượng quân
sự ở Thái Bình Dương. Theo đó, Mỹ sẽ bố trí 60% tàu chiến ở Thái Bình
Dương, bao gồm 6 tàu sân bay và đặc biệt là sự tăng cường của các loại
máy bay và tàu chiến hiện đại nhất.
Tuy nhiên, điểm đáng
chú ý nhất của chiến lược "xoay trục" của Mỹ lại nằm ở việc tái cơ cấu
các cơ cấu quân sự Mỹ và triển khai quân sự theo kiểu luân chuyển qua
các cảng khác nhau trong khu vực, nhằm tăng cường sự hiện diện quân sự
và đảm bảo "khả năng kiểm soát vùng biển trong khu vực tại bất cứ nơi
nào nếu cần thiết".
Rõ ràng việc gia tăng
quá lớn lực lượng quân sự và sự hiện diện của các quốc gia trên biển
Đông cũng sẽ dẫn đến kết quả tất yếu là mật độ tàu bè trên biển Đông gia
tăng với sự xuất hiện hỗn hợp của các tàu dân sự, bán quân sự và quân
sự. Tỉ lệ xảy ra va chạm giữa các bên cũng theo đó tăng lên và khó có
thể kiểm soát do "thiếu các lực lượng hàng hải có kinh nghiệm, có ít
hoặc không hiểu biết lẫn nhau về quản lý các sự cố hàng hải", như Giám
đốc điều hành Viện nghiên cứu Lowy - Micheal Wesley lo ngại.
Nếu va chạm xảy ra thì
chắc chắn sẽ biến thành các cuộc xung đột cục bộ giữa tàu chiến các
nước, và các tranh chấp này có thể sẽ ảnh hưởng tới toàn cầu.
Từ đó, có thể thấy
rằng, việc Trung Quốc quân sự hóa biển Đông là "lợi bất cập hại". Mặc dù
Trung Quốc có được sức mạnh răn đe các nước Đông Nam Á nhỏ yếu, có thể
âm thầm gặm nhấm chủ quyền của các quốc gia trong khu vực và có thêm một
con bài trên bài đàm phán. Tuy nhiên, hậu quả của chiến lược này là sự
phản đối của quốc tế, sự mất lòng tin của các quốc gia trong khu vực,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín và hình ảnh "trỗi dậy hòa bình" mà
Trung Quốc đã xây dựng trong hai thập kỉ qua.
Đặc biệt là việc Trung
Quốc sử dụng các tàu bán quân sự để thực hiện các hành động xác quyết
chủ quyền của mình, đây có thể coi là một chiến lược khôn ngoan, tuy
nhiên, nó cũng là con dao hai lưỡi vì các lực lượng bán quân sự như hải
giám, ngư chính,... do nhiều cơ quan khác nhau quản lý, thiếu đồng nhất
trong hoạt động và khó kiểm soát hiệu quả, do đó, nguy cơ xung đột là
không thể tránh khỏi và chắc chắn Mỹ sẽ có cơ hội để can thiệp một cách
chính danh.
Thậm chí nếu không có
xung đột nhưng việc Trung Quốc duy trì các hành động gây hấn quá lộ liễu
và ngang ngược cũng có thể biến thành "cơ hội" để Mỹ can thiệp sâu hơn
vào biển Đông. Lúc đó không chỉ là giấc mộng bá chủ, mong muốn biến biển
Đông thành "ao nhà" tiêu tan mà cả sức mạnh và tầm ảnh hưởng của Trung
Quốc trong khu vực cũng sẽ bị kiềm tỏa.
Trung Quốc đang chơi
một nước cờ mà tự đẩy mình vào thế "lưỡng bại câu thương". Vấn đề là
liệu các nước trong khu vực có đủ bình tĩnh để kiềm chế, không tự đẩy
mình vào xung đột? Rõ ràng, ngược lại với Trung Quốc, các nước khu vực
đang mong muốn một quang cảnh trời yên mây tạnh.
Theo Nguyễn Thế Phương
Vietnamnet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét